Chương 26 - Li Cổ
Hai con mắt của cái xác đã bị phân hủy tiêu đi mất, chỉ còn lại hai hốc mắt tối om. Miệng xác mở lớn đến mức khó tin, lộ ra hàm răng thiếu lỗ chỗ. Bộ mặt vì khô quắt nên biến dạng méo mó, trông rất dữ tợn, khiến không ai dám nhìn thẳng vào. Mà dựa vào hàm răng là có thể thấy, cái xác khô này không phải là xác khỉ, mà chính là xác người không chệch đi đâu được!
Lão Dương ngây người một lúc, nói: “Thế này là sao? Lão Ngô, cậu vừa mới nói nó là khỉ cơ mà? Này… cái này… là người nha.”
Tôi cũng lắp bắp: “Tôi… tôi cũng chẳng biết. Vừa nãy tôi đánh rớt cái mặt nạ, rõ ràng là khỉ mà, một con khỉ lông vàng hẳn hoi cơ. Này… này… Giời ạ, đúng là điên cái đầu.” Tôi vò đầu bứt tóc cố gắng nhớ lại xem có phải lúc ấy vì sáng tối mập mờ quá nên mắt mình nhìn lộn hay không.
Bỗng nhiên, trợ lý Lương khoát tay, ý bảo tôi đừng chạm vào thi thể. Sau đó, hắn cẩn thận đứng thẳng người lên, lật mặt sau của cái mặt nạ ra nhìn. Tôi thấy đằng sau chiếc mặt nạ, ở vị trí miệng có gồ lên những hình xoắn ốc to bằng nắm tay, trông như vỏ ốc sên, bên trên lại có một lỗ nhỏ. Trợ lý Lương cầm chiếc mặt nạ ướm thử vào mặt mình, sau đó quay đầu nói với chúng tôi: “Cái mặt nạ này hình như phải há miệng ra mới đeo lên được.”
Lão Dương ngạc nhiên nói: “Gắn vào miệng á? Tức là nhét cả một cái cục vô miệng cho tắc thở á? Vầy khó chịu chết.”
Tôi trông mấy cái xác khô mồm ngoác ra rất rộng, bèn nói với trợ lý Lương: “Lẽ nào mấy cái vỏ ốc sên này có gì kỳ lạ chăng, anh thử đập vỡ nó ra xem. Cái mặt nạ này độ dài vừa đủ cho mặt một con khỉ, nếu gắn vào miệng thì chỗ mắt lại bị che khuất mất. Chắc chắn là có cách gì đó khác đấy.”
Trợ lý Lương nghe vậy bèn chọc chiếc bút máy vào bên trong cái lỗ nhỏ, cố sức cạy ra. Cái “vỏ ốc sên” tức thì vỡ vụn, để lộ bên trong có một khúc gì đó dài dài trông như cái càng cua. Trợ lý Lương liền cạy nó ra thì phát hiện đó là một loại sâu bọ kỳ lạ chưa thấy ở đâu bao giờ, đã bị hóa thạch, chỉ cần dùng lực mạnh một chút là đứt thành nhiều đoạn ngay.
“Xem ra, cái mặt nạ này không phải là do tự nguyện đeo lên đâu.” Trợ lý Lương cau mày nói. “Cơ mà thứ này chắc chắn là đồ nhân tạo. Hai người nhìn hoa văn ở mặt trong cái mặt nạ mà xem, hoa văn này khá giống với hoa văn trên con rắn hai thân trên cây, rõ ràng là người đúc cái mặt nạ này với người đúc ra cây thanh đồng có liên quan mật thiết với nhau.”
Lão Dương cầm lấy cái mặt nạ, hứng chí nhìn ngắm đến nửa ngày, nói: “Này hay đây là con sâu cụ từ thời Tây Chu, không chừng đến giờ đã tuyệt chủng rồi, chẳng trách chúng ta không nhận ra là phải. Ai da, mấy người nhìn coi nè, con sâu này chỉ còn có một nửa.”
Nói xong, hắn nhìn chúng tôi, hỏi: “Thế nửa còn lại ở chỗ nào nhỉ?”
Con sâu nằm cuộn tròn trên phần gồ lên để gắn vào miệng của cái mặt nạ. Như vậy, nửa còn lại của con sâu chỉ nằm ở một nơi. Tôi nghĩ vậy, rồi vô thức nhìn vào cái miệng đang há to của cái xác khô, quả nhiên thấy trong khoang miệng tối om có một nửa con sâu đang bám trên đầu lưỡi. Con sâu khô quắt cắm vào yết hầu cái xác, dường như đang chui vào trong. Vì thi thể bị rữa hết thịt trông rất giống với con sâu hóa thạch, nên nếu không để ý kỹ thì sẽ nhầm tưởng con sâu này là phần lưỡi của thi thể.
Trợ lý Lương thấy thế, chợt biến sắc, kêu lên: “Mau ném đi, ném đi! Ôi ông giời của tôi ơi, nhanh ném nó đi! Cái mặt nạ đó có khi là vật thể sống đấy!” Nói xong hắn vung tay hất văng cái mặt nạ trong tay lão Dương ra. Chiếc mặt nạ nhanh chóng rơi vào trong bóng tối, đập vào các nhánh cây, bốp một tiếng, vỡ nát.
Lão Dương giật mình kinh hoảng, thiếu chút nữa trượt chân rơi tòm xuống luôn, liền gào lên hỏi hắn có phải bị thần kinh hay không, cái quái gì mà mặt nạ là vật thể sống cơ chứ?
Trợ lý Lương khụ một tiếng, hình như là đang hối hận. Hắn vò đầu bứt tai, nhíu mày nói: “Thật hổ thẹn, sao tôi lại ngu đến thế kia chứ, thế mà trước đây không nghĩ ra… Cây đồng thụ này, cách hiến tế này, nói rõ chúng nhất định không phải là tác phẩm của người Hán chúng ta, ôi chao, tôi đúng là ngu ngốc mà, ngu đến hết nói nổi luôn!”
“Ông đang lảm nhảm cái mẹ gì thế?”, lão Dương phát cáu, “Cái gì mà ngu ngốc, liên quan chó gì đến cái mặt nạ? Có gì cứ nói thẳng toẹt ra đi xem nào!”
Trợ lý Lương khoát tay áo, nói: “Không phải, anh kiên nhẫn nghe tôi nói hết cái nào, chuyện này phải kể từ đầu cơ, à mà, biết nói thế nào nhỉ? Kia phải bắt đầu từ chuyện huyết tế chúng ta vừa mới nói…”
Hóa ra, loại cúng tế bằng máu này chủ yếu phổ biến ở các dân tộc thiểu số thời Tây Chu, tất nhiên là khác với các dân tộc thiểu số thời hiện đại bây giờ. Người dân của các dân tộc thiểu số này hầu hết đều đã biến mất, có lẽ là đã nhập với người Hán. Một lễ huyết tế với quy mô lớn như vậy, trong chính sử của người Hán không có ghi chép lại, nhưng trong vài di chỉ còn sót lại của một số dân tộc ít người thì có lẻ tẻ nhắc đến. Đáng tiếc, bởi vì ngôn ngữ chữ viết thất truyền đã lâu, nên tư liệu tỉ mỉ về loại huyết tế này lại càng coi như không có.
Mà, các thánh địa để thờ cúng của các dân tộc thiểu số này đều rất linh thiêng, không chỉ có người canh gác cẩn mật mà đồng thời còn có thể được tế sư nào đó phù phép, bảo vệ thần linh không bị người ngoài quấy rầy. Tương truyền, quá trình phù phép cực kỳ thần bí, loại dị thuật này lưu truyền cho đến tận bây giờ, được thần thánh hóa lên thành một thứ cổ thuật vạn năng không gì không làm được y như trong tiểu thuyết.
Trợ lý Lương còn nói, cổ thuật bắt đầu phân chia từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, đến thời tống lại chia ra một lần nữa. Cổ thuật thời trước Tần cực kỳ lợi hại, lợi hại đến mức cũng giống như mấy cái siêu năng lực trong truyện tranh thời bây giờ vậy. Tuy nhiên, cổ thuật này chủ yếu dựa vào sâu bọ, nên có một thời kỳ, nó được gọi là mãnh trùng thuật. Những chiếc mặt nạ mà bọn khỉ và xác khô đeo này rất bí hiểm, có khả năng đó là kết quả của loại cổ thuật từ thời xa xưa này.
Hắn bảo, hắn từng nghe nói đến một loại cổ thuật, gọi là Li cổ, có thể khiến người ta trở nên hiếu chiến. Mà hóa thạch con sâu đang cắm vào yết hầu ở mặt sau chiếc mặt nạ kia có thể chính là nguyên hình của Li cổ từ thời xưa. Có khả năng loại sâu này gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh của động vật, khiến động vật trở nên hiếu chiến, tấn công người lạ. Thế nên, khi bị tôi đánh cho rớt vỡ mặt nạ, mấy con khỉ liền khôi phục bản tính, theo bản năng bỏ chạy khỏi chúng tôi.
Li cổ có thể sinh sôi nảy nở trong cơ thể của vật chủ, đợi khi vật chủ chết đi, chúng liền bám vào một chỗ nào đó, ví dụ như là mặt sau cái mặt nạ này chẳng hạn, chờ vật chủ kế tiếp tới gần, rồi bằng cách nào đó kí sinh trên người vật chủ.
Cái xác khô này, không chừng là một người thợ săn đến đây săn bắn, vô tình đụng phải Li cổ đang trong trạng thái ngủ đông, kết quả là bị cái tà thuật cổ xưa này cho lãnh đủ.
Tất nhiên, chưa ai tìm ra được bất cứ một tài liệu nào ghi chép về cái của Li cổ gì gì đó đó này, cũng chẳng biết có đúng sự thực hay không, chỉ có điều, trong mặt nạ này có hóa thạch con sâu đang thâm nhập vào yết hầu người, thôi thì chả biết thực hay hư, nhưng chắc chắn đây không phải chuyện bình thường, cứ phòng bị cẩn thận là tốt nhất.
Nghe trợ lý Lương nói vậy, toàn thân tôi nổi da gà da vịt. Thực ra, trong mấy tư liệu mà ông Tề ổng có đưa cho tôi cũng có nhắc đến những chuyện tương tự, thế nhưng lúc đó tôi chỉ xem qua loa, bụng bảo dạ rằng này đây có phải phim truyện chiều thứ bảy của điện ảnh nước nhà đâu, nào ngờ, bây giờ mới ngộ ra, phim khoa học viễn tưởng của Mỹ cũng còn phải học hỏi kĩ thuật của tổ tông nhà ta chán, thật không biết nên khóc hay nên cười nữa.
Quay đầu nhìn lại, cái thây khô quắt quỷ dị vẫn đứng im không nhúc nhích như cũ, chiếc mặt nạ trắng bệch tự tiếu phi tiếu, tựa hồ đang liếm môi chờ chúng tôi xáp đến gần.
Lão Dương sắc mặt có chút khó coi, nói thầm hỏi trợ lý Lương: “Nghe ông anh nói cũng kinh khủng quá đi à, vậy giả sử bị cái con Li cổ này nó dính vô người, lập tức lôi nó ra thì vẫn sống phải không? Không tai họa ngầm phải không?”
Trợ lý Lương nói: “Tôi cũng chẳng biết. Li cổ rất khó giải, tôi nghĩ, nếu một khi đi bị nó dính vào người thì chắc chắn không chỉ đơn giản là lôi nó ra là xong đâu. Loại chuyện này, chúng ta vẫn cứ đề phòng thì tốt hơn, cứ cố gắng tránh xa những cái xác khô này là được. Lão Thái trước cũng là trượt chân ngã từ nơi này xuống, lão là người từng trải như vậy, có khi lại không phải là do trượt chân đâu. Phải cẩn thận một chút.”
Lão Dương nhíu màu, cứ như là muốn nói cái gì, nhưng lại không nói thành lời được. Tôi liền hỏi hắn, với tình hình này thì còn phải trèo đến lúc nào nữa đây, nhỡ chẳng may phía trên các nhánh cây cũng dày đặc thế này thì có mà leo cho đến khi chết vì mệt cũng không lên được tới đỉnh. Lão Dương bảo tôi rằng, may ra thì phía trên nó có thể sẽ thưa bớt. Lúc hắn leo tay chỉ có một cái đèn pin bé xiu xiu, chiếu sáng rất kém, nên không để ý thấy những xác khô này, cũng không có con khỉ nào bất ngờ đánh úp hắn. Với lại, giờ hắn cũng chả biết mình đang ở cái chỗ quái nào, nhưng dù sao thì, các cụ dạy “tự cổ Hoa Sơn nhất căn trụ”(*), xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một cái rễ cột to oành, cứ leo lên riết cũng không bắn sang nơi khác được đâu.
(*) Nguyên gốc là “tự cổ Hoa Sơn nhất điều lộ”, tức là: xưa nay lên Hoa Sơn chỉ có một con đường, chẻ Dương đã tùy cơ ứng biến mà chém câu của cổ nhân người ta cho hợp hoàn cảnh (lên Hoa Sơn chỉ có một cái cột để mà bám mà leo) =))))))
Tôi cảm thấy nơi này không thích hợp để ở lâu, liền bảo bọn họ trước tiên cứ qua một đoạn này đã rồi hẵng tính tiếp. Đứng cùng chỗ với trợ lý Lương còn có một ông chủ béo nữa, ông này rất có khả năng sẽ leo lên trước chúng tôi. Nếu mà ông ta lên tới trên đỉnh trước thì sẽ hơi bị phiền phức. Nhỡ đâu có phục kích, ba chúng tôi không chừng sẽ chết không rõ ràng.
Lão Dương nói: “Nói có lý, cậu chờ một chút, tôi đi đốt ít pháo sáng, để xem trên ấy nó có phục kích gì không.” Nói xong hắn lôi ra khẩu súng báo hiệu, chỉa lên phía trên, bắn một đường thẳng tắp.
Đạn tín hiệu bay lên, không nghe tiếng chạm tới đỉnh, lòng tôi nôn nao một trận hồi hộp. Loại đạn này tối thiểu phải lên đến được hai trăm mét, vầy tức là còn phải leo ít nhất hai trăm mét nữa, ha hả, này thật là nản muốn chết quá đi.
Đạn tín hiệu cháy bùng, nhìn lên trước, quả nhiên là phía trên một đoạn không xa nữa các cành cây cũng càng thưa thớt lỏng lẻo dần, không hiểu vì sao lại thiết kế như vậy. Hơn nữa, nhìn cao lên nữa, phạm vi hai trăm mét không phải là giới hạn, tôi còn có thể thấy một vài thứ nữa, tuy là không sao nói được nó là cái gì.
Đạn tín hiệu rơi xuống, lão Dương nhìn kỹ một lúc, rồi nói: “Xem ra ông chủ mập Quảng Đông kia không có phục kích ở phía trên, nói không chừng chỉ có mình lão Thái còn sống nhăn răng mà chạy đến đây, dù sao thì cái đám quan tài trận bên ngoài kia nom chẳng khả quan gì mấy… A, này, cái gì thế kia?”
Khi đạn tín hiệu rơi xuống cách khoảng hơn sáu mươi mét, chúng tôi chợt nhìn thấy cái gì đó gồ ghề nổi lên trên một đoạn thân cây thanh đồng. Nhìn kỹ, tôi tức thì cảm thấy sau ót tê rần rần, mồ hôi lạnh ứa ra tận lòng bàn chân: cách cả bọn chừng mười mét, trên thân cây thanh đồng trồi lên một bộ mặt. Không, phải nói đó là một chiếc mặt nạ hình dạng rất quỷ dị.