Chương 38 - Người Chết Trên Đống Vàng
Mộ thất này so với hầm rượu ban nãy, cả về chiều cao lẫn chiều rộng đều gấp mười lần. Bốn cây cột trụ khổng lồ đặt ở bốn góc mộ thất điêu khắc đầy phù điêu, trên nền mộ thất ngồn ngộn của cải, khi pháo lạnh bùng cháy, chúng tôi mới phát hiện ra đó là những núi dụng cụ bằng vàng bạc, đá quý, lưu ly, trân châu mỹ ngọc. Đèn pin của chúng tôi chiếu lên khiến chúng tỏa sáng lấp lánh, quả thực khiến người ta lóa mắt.
“Ôi má ơi………” Mắt Bàn Tử trợn trừng, lớn hơn mắt bò, gương mặt vặn vẹo.
Tôi cũng quá đỗi kinh ngạc, gần như không thể đứng vững. Phan Tử lẩm bẩm: “Tôi bảo rồi mà, quốc khố của người Nữ Chân lẫn vật phẩm tiến cống hàng năm của Nam Tống đều ở đây. Con mẹ nó, đây đã nói là chỉ có chuẩn.”
Bước chân vào cái nghề này bao lâu, những thứ tôi nhìn thấy trước đây so với nơi này đúng là đồng nát sắt vụn. Tôi nghĩ bây giờ mình cũng không trốn được số mệnh, không ngờ trong hoàng lăng của một quốc gia nhỏ bé nơi biên giới hoang vu lại có chừng này bảo bối. Chẳng lẽ đúng như lời Phan Tử nói, sau khi Đại Kim diệt vong, toàn bộ bảo bối của nó đều được cất giấu ở nơi này. Vấn đề bây giờ không phải là phát tài nữa, mà chỉ cần nhặt bừa vài món trong đống kia mang ra cũng đủ sống sung sướng cả đời.
Bàn Tử chỉ muốn lăn xả vào đống vàng bạc kia. Lòng tôi cũng đang gào thét muốn xông lên nhưng vẫn còn một tia lí trí, bèn giữ chặt Bàn Tử, không để hắn vì mờ mắt mà làm liều. Rất nhiều kim khí trong các mộ táng trên bề mặt đều phủ một lớp kịch độc, lăn vào giữa đống vàng rồi trúng độc mà chết thì cũng quá nhảm, mấy thứ này tốt nhất là không nên đụng vào.
Nhưng tôi mải giữ Bàn Tử mà quên béng mất Phan Tử, chưa gì ảnh đã lao vào đống vàng, vốc lên một nắm to kim khí, ngây ra mà nhìn. Ánh sáng phản xạ từ đống vàng chiếu lên khiến mặt anh vàng chóe, cả người phát run. Sau đó anh buông tay, mấy món đồ kia theo kẽ tay anh rơi xuống đất, kim loại va chạm phát ra tiếng leng keng.
Tôi thấy Phan Tử động vào kim khí mà không việc gì, biết kim khí kia không có độc, tảng đá đè nặng trong lòng bỗng chốc biến mất. Tôi không nhịn được nữa, cũng nhảy vào sờ loạn một phen, cái cảm giác nặng trịch này khiến tôi không tự chủ được mà cười lên ha hả. Tôi không nhớ có ai đó đã nói: Sự ham mê vàng của con người đã ăn sâu vào gen, biến thành bản năng bẩm sinh không thể kháng cự. Con mẹ nó, hắn nói không sai tí nào.
Cho dù là người như tôi, tuy bề ngoài vẫn ra vẻ đạo mạo nhưng mỗi khi nhìn thấy vàng bạc châu báu thì sâu trong tâm khảm vẫn rung động mãnh liệt, tôi nghĩ dù có tự lừa dối mình cũng chẳng được. Tôi thích đống của cải này.
Mấy người chúng tôi lập tức quên sạch sẽ mọi chuyện, vội vàng chạy ào đến đống của cải này vơ vét một mớ, lại chạy đến đống kia nhặt lên một cái phát quan khảm đầy đá quý ngắm nghía thật lâu. Mấy thứ này thực sự đều là cực phẩm, chỉ cần lấy được một cái cho vào viện bảo tàng cũng thành bảo vật trấn viện. Giờ ở trong đây lại có cả một đống, cứ mặc sức sờ mó, mặc sức dẫm lên cũng không cảm thấy đáng tiếc.
Bàn Tử bên cạnh đã bắt đầu vơ vét của cải. Hắn đổ hết trang bị trong túi ra ngoài, không để lại thứ gì, rồi ra sức nhồi nhét vàng bạc vào. Nhét đầy rồi lại cảm thấy không ổn, liền dốc ra bằng sạch rồi nhặt mấy món khác nhét vào, nhồi nhồi nhét nhét lại còn hú lên mấy tiếng vô nghĩa.
Chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra, bất kể có nhồi nhét kĩ đến đâu cũng không thể mang đi một phần vạn của đống bảo vật này. Vừa nhét thứ này vào túi xong lại phát hiện có thứ khác quý giá hơn ở bên dưới, nhét thứ quý giá hơn ấy vào rồi lại phát hiện ra thứ khác nữa mới là cực phẩm chưa thấy bao giờ, vì thế cứ phân vân, không biết chọn thứ nào.
Điên cuồng một lúc lâu, cho đến khi cả đám đều kiệt sức, sự hưng phấn cực độ đã nhường chỗ cho óc tỉnh táo, tôi mới cảm thấy có gì đó không ổn. Tại sao sau khi vào đây tôi không nghe thấy tiếng của Thuận Tử nữa chứ?
Tôi lau mồ hôi trên đầu, đứng lên khỏi đống châu báu, chiếu đèn pin khắp bốn vùng quanh thì thấy Thuận Tử đứng lặng đi trên một đống kim khí, không biết đang nhìn cái gì.
Tôi lại gần hắn, hỏi hắn làm sao vậy, thấy nhiều vàng bạc thế này mà không vui à?
Hắn lặng lẽ chỉ xuống bên dưới, tôi chiếu đèn pin theo hướng hắn chỉ, phát hiện giữa những đống kim khí, vây quanh là vô vàn châu báu có mấy người nằm co quắp, không hề nhúc nhích, hình như đã chết cả.
Tôi giật mình hoảng sợ, bao nhiêu hưng phấn hồi nãy phút chốc tan biến, da gà nổi đầy người.
Bàn Tử và Phan Tử thấy tôi và Thuận Tử đứng ngây ra tại chỗ, lại tưởng chúng tôi phát hiện ra bảo bối gì bèn vội vã chạy lại, thấy mấy cái bánh tông cũng không khỏi giật mình.
Chúng tôi leo xuống khoảng trũng giữa những đống kim khí, cầm chặt đèn pin chiếu thật cản thận, phát hiện kia quả thực là người chết, hơn nữa chết cũng đã lâu. Da thi thể mất nước, quắt queo đông cứng lại như vỏ quất. Lạ một nỗi, mấy người này đều mặc áo khoác nỉ đã mục nát, rõ ràng là trang phục của người hiện đại, bên cạnh còn có mấy ba lô hành quân kiểu cũ cũng đã mục nát đến độ không nhìn rõ hình dạng.
Bàn Tử nghi hoặc hỏi: “Chuyện quái quỷ gì đây? Mấy người này là ai? Đồng nghiệp với chúng ta chăng?”
Tôi lắc đầu, đeo găng tay vào rồi lục lọi quần áo và ba lô của mấy thi thể kia. Những bộ đồ này hẳn là kiểu y phục thịnh hành vào những năm 80, 90, đến bây giờ những người già tầm bốn mươi năm mươi tuổi ở vùng nông thôn Đông Bắc vẫn còn mặc. Lúc ở thôn Doanh Sơn chúng tôi cũng gặp khá nhiều người trung niên mặc thứ này, nhưng xem độ phân hủy thì những người này phải chết từ năm đến hai mươi năm rồi.
Phan Tử hỏi: “Hay họ là người hái thuốc hoặc thợ săn trên núi Trường Bạch đi lạc vào chỗ này, không ra được nên chết ở đây?”
“Không phải đâu.” Tôi kéo quần áo của một khối nữ thi, nhìn vào lỗ tai thì thấy nữ thi này đeo một cái khuyên kiểu cũ, trên tay còn đeo đồng hồ đã rỉ sét từ lâu. “Anh xem, đây là đồng hồ Titoni kiểu cổ (1) của Thụy Sĩ, lúc đó dù là thị trưởng cũng chưa chắc đã mua được. Lai lịch của cô gái này không tầm thường đâu, trông chẳng giống người nông thôn tí nào.”
“Hay đây là mấy du khách lạc đường trước năm 80?” Phan Tử lại hỏi: “Những kí hiệu chúng ta đi theo lẽ nào là do họ khắc lên?”
Tôi lắc đầu, không thể có chuyện họ khắc mấy kí hiệu này, bởi vì kí hiệu kia tôi đã từng trông thấy trong huyệt mộ dưới đáy biển, nhất định là do một người có liên quan khắc, không phải đám người A Ninh thì chỉ còn có Muộn Du Bình. Nói là du khách lạc đường thì cũng có thể, nhưng ai lại lạc đường đến tận đây cơ chứ? Mộ đạo địa cung, nếu gan không đủ lớn thì người thường chẳng ai dám xuống.
Nhưng nếu cô gái này có chút địa vị, ví dụ như là con gái của một vị lãnh đạo, hoặc là có quen biết giới quan chức địa phương thì một khi mất tích hẳn sẽ rất ồn ào, Thuận Tử tuổi cũng không còn trẻ, có thể sẽ biết. Nghĩ thế tôi bèn quay sang, tính hỏi hắn xem trong khoảng thời gian từ năm đến hai mươi năm trở về trước, vùng này có xảy ra vụ mất tích ầm ĩ nào không. Nhưng quay sang lại thấy Thuận Tử không chạy xuống theo chúng tôi mà vẫn đứng chôn chân trên đống vàng, nét mặt đã cứng đờ.
Tôi nghĩ bụng, quái, chẳng lẽ Thuận Tử cũng bị lưỡi thi thai quấn lấy giống Bàn Tử rồi hả? Nhìn kĩ thì cổ hắn trống không, nhưng người hắn lại run lên từng chặp, cũng cảm thấy có gì đó không ổn.
Bàn Tử hỏi hắn: “Làm sao vậy? Sợ người chết à? Vừa nãy có thấy anh sợ sệt gì đâu?”
Thuận Tử phớt lờ Bàn Tử, lê từng bước chân nặng nề tới bên một khối thi thể rồi ngồi thụp xuống, trông hắn căng thẳng như muốn ngã sấp.
Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt hiểu ra mọi chuyện.
Bàn Tử định chạy đi đập hắn mấy cái nhưng bị tôi khoát tay cản lại. Hắn thì thầm hỏi: “Hắn làm sao vậy? Trúng tà à?”
Tôi lắc đầu. Mấy khối thi thể này, nếu tôi đoán không nhầm thì có thể là nhóm người được cha Thuận Tử dẫn vào núi Trường Bạch mười năm về trước mà hắn đã từng kể cho tôi nghe. Mà khối thi thể Thuận Tử đang nhìn chăm chăm kia có lẽ chính là cha hắn, cho nên hành động của hắn mới căng thẳng đến thế.
Không ngờ hắn đã đoán đúng, đi theo chúng tôi thật sự có thể tìm thấy di thể của cha…
Nhưng đây chỉ là trùng hợp thôi sao? Nhóm người mười năm trước có thật là đi lạc vào chỗ này? Hay là còn có ẩn tình gì khác mà chúng tôi chưa biết?